Chính Sách Đề Vịnh

正冊題詠之一  

Hán văn


可嘆停機德,
堪憐詠絮才!
玉帶林中掛,
金簪雪裏埋。

Phiên âm

Khả thán đình cơ đức,
Kham liên vịnh nhứ tài!
Ngọc đới lâm trung quải,
Kim trâm tuyết lý mai.

Dịch thơ Vũ Bội Hoàng

Than ôi có đức dừng thoi,
Thương ôi cô gái có tài vịnh bông.
Ai treo đai ngọc giữa rừng,
Trâm vàng ai đã vùi trong tuyết dày?


正冊題詠之二  

Hán văn

二十年來辨是非,
榴花開處照宮闈;
三春爭及初春景,
虎兔相逢大夢歸。

Phiên âm

Nhị thập niên lai biện thị phi,
Lựu hoa khai xứ chiếu cung vi;
Tam xuân tranh cập sơ xuân cảnh,
Hổ thố tương phùng đại mộng quy.

Dịch thơ Vũ Bội Hoàng

Sau tuổi hai mươi đã trải đời,
Kìa hoa lựu nở cửa cung soi.
Ba xuân nào được bằng xuân mới,

Thỏ gặp hùm kia giấc mộng xuôi.


正冊題詠之三  

Hán văn

才自精明志自高,
生于末世運偏消;
清明涕送江邊望,
千里東風一夢遙。

Phiên âm

Tài tự tinh minh chí tự cao,
Sinh vu mạt thế vận thiên tiêu;
Thanh minh di tống giang biên vọng,
Thiên lý đông phong nhất mộng dao.

Dịch thơ Vũ Bội Hoàng

Chí cao tài giỏi có ai bì,
Gặp lúc nhà suy, vận cũng suy,
Nhớ tiếc thanh xuân ra bến khóc.

Gió đông nghìn dặm mộng xa đi.


正冊題詠之四  

Hán văn

富貴又何為?
襁褓之間父母違;
轉眼弔斜暉,
湘江水逝楚雲飛。

Phiên âm

Phú quý hựu hà vi?
Cưỡng bảo chi gian phụ mẫu vi;
Chuyển nhãn điếu tà huy,
Tương giang thuỷ thệ Sở vân phi.

Dịch thơ Vũ Bội Hoàng

Giàu sang cũng thế thôi.
Từ bé mẹ cha bỏ đi rồi.
Nhìn bóng chiều ngậm ngùi,

Sông Tương nước chảy mây Sở trôi.


正冊題詠之五  

Hán văn

欲潔何曾潔,
云空未必空;
可憐金玉質,
終陷淖泥中。

Phiên âm

Dục khiết hà tằng khiết,
Vân không vị tất không;
Khả liên kim ngọc chất,
Chung hãm náo nê trung.

Dịch thơ Vũ Bội Hoàng

Muốn sạch mà không sạch.
Rằng không chửa hẳn không.
Thương thay mình vàng ngọc,

Bùn lầy sa vào trong.


正冊題詠之六  

Hán văn

子系中山狼,
得志便猖狂;
金閨花柳質,
一載赴黃粱

Phiên âm

Tử hệ Trung sơn lang,
Đắc chí tiện xương cuồng;
Kim khuê hoa liễu chất,
Nhất tái phó hoàng lương.

Dịch thơ Vũ Bội Hoàng

Rõ ràng giống sói Trung Sơn,
Gặp khi đắc ý ngông cuồng lắm thay.
Làm cho hoa liễu thân này,

Hoàng lương giấc mộng mới đầy một năm.


正冊題詠之七  

Hán văn

勘破三春景不長,
緇衣頓改昔年妝;
可憐繡戶侯門女,
獨臥青燈古佛旁。

Phiên âm

Khám phá tam xuân cảnh bất trường,
Truy y đốn cải tích niên trang;
Khả liên tú hộ hầu môn nữ,
Độc ngoạ thanh đăng cổ phật bàng.

Dịch thơ Vũ Bội Hoàng

Biết rõ ba xuân cảnh chóng già,
Thời trang đổi lấy áo cà sa.
Thương thay con gái nhà khuê các,

Một ngọn đèn xanh cạnh phật bà.


正冊題詠之八  

Hán văn

凡鳥偏從末世來,
都知愛慕此生才;
一從二令三人木,
哭向金陵事更哀。

Phiên âm

Phàm điểu thiên tòng mạt thế lai,
Đô tri ái mộ thử sinh tài;
Nhất tòng nhị lệnh tam nhân mộc,
Khốc hướng Kim Lăng sự cánh ai.

Dịch thơ Vũ Bội Hoàng

Chim phượng kìa sao đến lỗi thời,
Người đều yêu mến bực cao tài,
Một theo hai lệnh, ba thôi cả,

Nhìn lại Kim Lăng luống ngậm ngùi.



正冊題詠之九  

Hán văn

勢敗休云貴,
家亡莫論親;
偶因濟村婦,
巧得遇恩人。

Phiên âm

Thế bại hưu vân quý,
Gia vong mạc luận thân;
Ngẫu nhân tế thôn phụ,
Xảo đắc ngộ ân nhân.

Dịch thơ Vũ Bội Hoàng

Vận suy đừng kể rằng sang,
Nhà suy chớ kể họ hàng gần xa.
Tình cờ cứu giúp người ta,

Khéo sao Lưu thị lại là ân nhân.


正冊題詠之十  

Hán văn

桃李春風結子完,
到頭誰似一盆蘭?
如冰水好空相妒,
枉與他人作笑談。

Phiên âm

Đào lý xuân phong kết tử hoàn,
Đáo đầu thuỳ tự nhất bồn lan?
Như băng thuỷ hảo không tương đố,
Uổng dữ tha nhân tác tiếu đàm.

Dịch thơ Vũ Bội Hoàng

Gặp xuân đào lý quả muôn vàn,
Rốt cuộc sao bằng một chậu lan.
Nước sạch, băng trong ghen ghét hão,

Tiếng tăm còn để lại nhân gian.


正冊題詠之十一  

Hán văn

情天情海幻情身,
情既相逢必主淫;
漫言不肖皆榮出,
造釁開端實在寧。

Phiên âm

Tình thiên tình hải ảo tình thân,
Tình ký tương phùng tất chủ dâm;
Mạn ngôn bất tiêu giai vinh xuất,
Tạo hấn khai đoan thực tại "ninh".

Dịch thơ Vũ Bội Hoàng

Trời tình, bể tình là mộng ảo,
Mà tội dâm kia cũng bởi tình.
Đầu têu nào phải "Vinh" hư hỏng,

Mở lối khơi nguồn, thực tại "Ninh".